Đền Đệ Nhất
Đền Đệ Nhất
Đền Đệ Nhất
Đền Đệ Nhất
Đền Đệ Nhất
Đền Đệ Nhất
Đền Đệ Nhất
Đền Đệ Nhất
Đền Đệ Nhất
Đền Đệ Nhất
Đền Đệ Nhất
Đền Đệ Nhất
Đền Đệ Nhất
Đền Đệ Nhất
Đền Đệ Nhất

Camera tour

Introdution

Price: Free

Time to visit a place: 120 phút

Open Time: 07:00 - Close Time: 18:00

Address: Xã Diễn Nguyên, Huyện Diễn Châu, Tỉnh Nghệ An

ĐỀN ĐỆ NHẤT Đền Đệ Nhất do nhân dân làng Đệ Nhất xây dựng tại xóm Tân Phong, xã Diễn Nguyên, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Trải qua các thời kỳ lịch sử, địa danh đã thay đổi, nhưng di tích vẫn giữ được vị trí ban đầu. Từ trung tâm thành phố Vinh, đi theo quốc lộ 1A khoảng 40m, đến Ngã Ba Diễn Châu, rẽ trái theo quốc lộ 7A khoảng 7km rẽ phải theo đường liên xã khoảng 3km đến đầu làng Tân phong, rẽ phải theo đường liên thôn 200m thì đến di tích. Đền Đệ Nhất xây dựng từ thời Lê, để thờ Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn. Theo gia phả họ Hoàng ở Vạn Phần (nay là Diễn Vạn, Diễn Châu, Nghệ An) và văn bia “Nam miếu tôn thần sự tích” do Tổng tài quốc sử quán Cao Xuân Dục biên soạn, và một số tài liệu khác tại địa phương thì, Sát Hải Đại Vương tên thật là Hoàng Tá Thốn, hiệu là Tô Đại Liêu, sinh ngày 15/4/1254 (năm Giáp Dần) ở làng Vạn Phần, huyện Diễn Châu. Mẹ người họ Trương ở thôn Lý Trai. Tương truyền rằng: một buổi ... View more

Map

Introdution

×

ĐỀN ĐỆ NHẤT

Đền Đệ Nhất do nhân dân làng Đệ Nhất xây dựng tại xóm Tân Phong, xã Diễn Nguyên, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Trải qua các thời kỳ lịch sử, địa danh đã thay đổi, nhưng di tích vẫn giữ được vị trí ban đầu.

Từ trung tâm thành phố Vinh, đi theo quốc lộ 1A khoảng 40m, đến Ngã Ba Diễn Châu, rẽ trái theo quốc lộ 7A khoảng 7km rẽ phải theo đường liên xã khoảng 3km đến đầu làng Tân phong, rẽ phải theo đường liên thôn 200m thì đến di tích.

Đền Đệ Nhất xây dựng từ thời Lê, để thờ Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn. Theo gia phả họ Hoàng ở Vạn Phần (nay là Diễn Vạn, Diễn Châu, Nghệ An) và văn bia “Nam miếu tôn thần sự tích” do Tổng tài quốc sử quán Cao Xuân Dục biên soạn, và một số tài liệu khác tại địa phương thì, Sát Hải Đại Vương tên thật là Hoàng Tá Thốn, hiệu là Tô Đại Liêu, sinh ngày 15/4/1254 (năm Giáp Dần) ở làng Vạn Phần, huyện Diễn Châu. Mẹ người họ Trương ở thôn Lý Trai. Tương truyền rằng: một buổi sáng tinh mơ, Trương phu nhân ra sông gánh nước bỗng thấy hai con trâu từ dưới nước lao lên và nhào vào húc nhau. Chúng lao đến chỗ bà, bà dùng đòn gánh đuổi, tự nhiên hai con trâu biến mất. Nhưng một cái lông trâu đã dính vào đầu đòn gánh rồi rơi xuống thùng nước, bà uống phải, thì thấy trong người khác thường. Từ đó bà mang thai, ít lâu sau sinh được một bé trai khôi ngô tuấn tú, đặt tên là Hoàng Tá Thốn. Lớn lên Hoàng Tá Thốn có sức khỏe hơn người, vật giỏi, trai tráng trong vùng không ai địch nổi, đặc biệt là tài bơi lội.

Hoàng Tá Thốn lớn lên gặp lúc đất nước bị giặc Mông Nguyên xâm lược. Do có tài bơi lội, giỏi võ nghệ, thông minh, lắm cơ mưu nên được Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn sung vào đội thủy binh của triều đình và chiêu làm “Nội thư gia” (giúp việc binh thư). Mùa thu tháng 8 năm 1284, Hưng Đạo Vương tổng duyệt binh ở bến Đông Bộ Đầu, Hoàng Tá Thốn được giao nhiệm vụ “quản quân mãnh lang” thủy chiến đóng giữ nơi xung yếu. Trong những lần giao tranh với quân giặc, Ngài cùng các chiến hữu của mình lặn xuống sông đục ngầm thuyền địch, làm đắm hàng trăm chiếc. Quân Nguyên hoảng sợ bỏ chạy tan tác, Toa Đô bị chém đầu, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng tháo chạy, Ô Mã Nhi dùng thuyền nhỏ vượt biển thoát thân. Từ đó Ngài trở thành trợ thủ thân cận của Hưng Đạo Vương.

Sau hai lần xâm lược Đại Việt thất bại, tháng 3 năm Bính Tuất (1286) quân Nguyên quyết chiếm nước ta lần nữa. Lần này Hoàng Tá Thốn tiếp tục được triều đình giao nhiệm vụ chỉ huy đội quân “mãnh lang” thủy chiến. Cuộc chiến kéo dài suốt 2 năm (1286-1288), làm nên chiến thắng lẫy lừng là trận Bạch Đằng năm Mậu Tý được ví như trận Xích Bích, khiến quân Nguyên phải kinh hồn bạt vía, từ bỏ hẳn ý định xâm lược Đại Việt. Sau khi đất nước sạch bóng quân thù, triều đình luận công ban thưởng, vua Trần Nhân Tông phong cho Hoàng Tá Thốn là Sát Hải Chàng Lại Đại Tướng Quân, ban tước “Minh Tự” làm tướng thống lĩnh các đạo thủy binh coi giữ 12 cửa biển, bảo vệ vùng duyên hải. Từ đó ngày đêm ngài huấn luyện, truyền dạy cho binh sỹ trở thành những thủy binh thiện chiến nhất. Ngày 15/3/1339, trên đường đi tuần thú đường biển từ Thanh Hóa đến Cửa Trào huyện Hoằng Hóa Ngài đã hóa. Triều đình được tin, truy phong là Tô Đại Liên Thiên Bồng Nguyên Soái Đại Tướng Quân, cho thuyền rồng chở linh cữu về quê Vạn Phần an táng tại xứ Mả Cháy và lập đền thờ ở đó. Về sau các triều đại đều sắc phong cho Ngài là “Sát Hải Đại Vương Quản quân Mãnh lang Thiên Bồng Nguyên Soái Đại Tướng Quân, thượng thượng đẳng tôn thần”, “Bản Xứ Thành Hoàng Bảo Đức Phúc Thần Quản Quân Mãnh Lang Thái Minh Trợ Quốc Tích Dân Hồng Mô Vĩ Lược Hoằng Tế Quảng Đại Vương; ... Ghi nhớ công lao to lớn của Ngài nhân dân khắp nơi ở các vùng duyên hải đều lập đền thờ Ngài như: Nghi Lộc, Quỳnh Lưu, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Ninh Bình, Thái Bình, Hải Phòng, Khánh Hòa, Ninh Thuận...

Những lúc gặp thiên tai, hạn hán, dịch bệnh, triều đình đều lệnh cho nhân dân quanh vùng rước các thần về đền Đệ Nhất lập đàn cầu đảo. Hiện nay, ngoài thờ chính là Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn, tại đền Đệ Nhất còn phối thờ các vị Chư Phật như:

Tượng Phật Bà Quan Âm là vị phật được rước từ chùa của làng Đệ Nhất về hợp tự. Nguyên làng Đệ Nhất xưa số đinh rất ít, nên dân làng ở đây đã xây chùa thờ phật để cầu đinh. Đặc biệt là ngôi chùa này chỉ thờ duy nhất Phật Bà Quan Âm. Năm 1976, hợp tác xã đắp con đường mới sang sân chùa, nhà chùa bị tháo dỡ làm kho thóc nhân dân ở đây đã rước tượng Phật Bà sang đền Đệ Nhất hợp tự.

Địa Tạng Vương Bồ Tát là vị đã chứng bậc đẳng giác trải đến vô lượng a tăng kỳ kiếp. Ngài đại nguyện rằng: Nếu ngài chưa độ được hết chúng sinh thì ngài không chứng quả Bồ Đề. Do bổn nguyện ấy nên ngài phân thân nhiều lần để cứu chúng sinh thoát khỏi bể khổ. Hàng năm cộng đồng phật giáo tổ chức vía Địa Tạng Bồ Tát vào ngày 30/7 (âm lịch).

Từ năm 1949, do điều kiện chiến tranh, thiên tai nhiều vị phật, thánh, thần ở các ngôi đền, chùa, các xã lân cận như Diễn Nguyên, Diễn Đồng, Diễn Liên, Diễn Thái... được nhân dân hợp tự ở đền Đệ Nhất. Vì vậy ở đây thờ nhiều thần, phật khác như: Đông Phương Thái Giám, Bắc Phương Thái Giám, Khổng Tử, Hưng Đạo Đại Vương, Tam Tòa Thánh Mẫu, Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên, Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn, Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ, Song Đồng Ngọc Nữ, Bản Thổ Thành hoàng làng Đông Phú, Bản Xứ Anh linh làng Đông Phú, Ngô Vương thượng đẳng chính thần của làng Thư Phủ, Bản cảnh Thông duệ tôn thần của làng Thư Phủ, Bản cảnh thành hoàng Linh hựu của làng Thư Phủ, Tả Thanh Tra, Hữu Giám Sát, ...

Đền Đệ Nhất không chỉ là công trình kiến trúc tín ngưỡng tâm linh mà còn là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương nói riêng và của dân tộc nói chung.

Trong phong trào Cần Vương, làng Đệ Nhất là nơi đóng quân của nghĩa quân cụ nghè Nguyễn Xuân Ôn. Chính tại đây cụ Nghè đã tổ chức lạc quyên, nhân dân làng Đệ Nhất tham gia ủng hộ rất lớn. Tổng lượng ủng hộ của làng Đệ Nhất được nhiều nhất trong vùng. Sau đó nhiều lần cụ Nghè về thăm quân sĩ đã vào nghỉ chân và thắp hương để cầu sự phù hộ của thần.

Năm 1928, đồng chí Võ Nguyên Hiến được tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội cử về xây dựng cơ sở ở Diễn Châu. Từ cơ sở Hậu Luật (Diễn Bình) đồng chí đã mở rộng sang làng Đệ Nhất (Diễn Nguyên).

Sau khi Đảng bộ huyện Diễn Châu ra đời, chi bộ làng Đệ Nhất - một trong hai chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Diễn Châu cũng được thành lập tại đền Đệ Nhất. Trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, nhận thấy đền Đệ Nhất là nơi kín đáo, cây cối rậm rạp, xa khu dân cư, lại là chốn linh thiêng ít người mạo phạm nên chi bộ Đảng làng Đệ Nhất đã chọn nơi đây làm nơi họp hành, bàn bạc kế hoạch hoạt động. Đền Đệ Nhất còn là nơi in ấn tài liệu của Đảng, là nơi cờ Đảng được treo lên trước cổng đền vào ngày 1/5/1930. Ngày 20/8/1945, nhân dân Diễn Nguyên dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nổi dậy cướp chính quyền. Tại đền Đệ Nhất, lý trưởng đã bàn giao ấn triện, sổ sách, giấy tờ cho chính quyền cách mạng. Ngày 21/8/1945, nhân dân làng Đệ Nhất tập trung tại sân đền sau đó cùng với nhân dân làng Thái Xá đi bắt bang tá Hữu Trân, đoàn biểu tình kéo xuống phối hợp với nhân dân toàn huyện biểu tình đấu tranh cướp chính quyền, thành lập chính quyền Việt Minh. Ngày 4/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát động “tuần lễ vàng”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, đông đảo nhân dân làng Đệ Nhất tập trung tại sân đền Đệ Nhất quyên góp tiền, vàng, bạc.

Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, đền Đệ Nhất trở thành nơi cất vũ khí, đạn dược, nơi tập trung dân quân tự vệ, nơi đón tiếp bộ đội về làng, nơi kết nạp Đảng viên mới, nơi tập trung nhân dân để tuyên truyền cách mạng. Đền Đệ Nhất là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân làng Đệ Nhất nói riêng và xã Diễn Nguyên cũng như các vùng lân cận nói chung.

Đền Đệ Nhất là công trình kiến trúc tâm linh xây dựng vào thời Lê, tọa lạc ngay đầu làng Đệ Nhất, gồm các công trình: Tam quan, Thượng điện, giếng nước và bia Văn Hội.

Tam quan được xây theo kiểu chồng diêm ba tầng tám mái, dật cấp, tạo theo thế vát dần lên trên. Tầng thứ nhất được xây dựng theo kiểu cổng thành, cửa vòm cuốn tròn. Phía trên ngạch trán có hình hổ dữ tợn. Hai bên đắp phù điêu hai con chim phượng hoàng đang xòe cánh chầu vào giữa. Liền với mặt trước của tầng thứ nhất là cánh gà hai bên đắp phù điêu hai vị tướng gác cổng, tả văn và hữu võ. Liền trước cánh gà là trụ biểu, được làm theo kiểu trụ vuông thót đáy, trên cùng có đắp quả chành hình múi khế bốn cạnh ba phía trụ biểu đều có câu đối.

Tầng thứ hai nhỏ hơn tầng thứ nhất, kết cấu gần giống tầng thứ nhất nhưng ô cửa không vòm cuốn nữa mà chuyển sang ô cửa vuông, có các hoa văn hình học làm cửa võng. Phía trên của tầng thứ hai là hệ mái, lợp ngói vảy, bốn đầu đao cong vút đắp bốn con rồng chầu về bốn phía. Tầng thứ ba là tầng trên cùng, kết cấu giống tầng thứ nhất và thứ hai. Chính giữa đỉnh mái Tam quan đắp hình mặt trời, hai đầu kìm đắp hình vân mây xoắn. Đi vào là giếng đền, nằm ở phía đông đền, trên khuôn viên nhà thánh. Bia Văn Hội nằm ở phía tây đền, có hình hộp chữ nhật, diềm bia có hình hoa lá cách điệu, ở giữa lòng bia khắc nội dung bài văn bia. Sân đền được láng xi măng, đây là khoảng sân lộ thiên giữa trung điện và hạ điện. Tiếp đến là khu vườn được trồng các cây bóng mát như: Bồ đề, sanh, si, bạch đàn...

Nhà chính điện nằm ở trong cùng là ngôi nhà dọc hai gian ba vì, bài trí thành ba cung thờ. Cung chính giữa, gồm hai gian. Gian ngoài bài trí ba lớp hương án và bàn thờ, tiếp theo là hai án thờ cổ bằng gỗ mít, sơn đỏ. Trên án đặt một tòa sen cổ, hai bên có hai cột nến, chính giữa là tượng Địa Tạng Bồ Tát. Gian trong là giường thờ được gác lên cột cái, bài trí hai lớp thờ. Lớp thờ ngoài bài trí tượng Thanh Tra và Giám sát. Lớp trong là long khám, long khám chính là nơi đặt bài vị của Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn. Cung bên tả được bài trí hai án thờ cao bằng nhau. Án thờ thứ nhất đặt bát hương, án thờ thứ hai đặt bài vị các thần. Chính giữa là bài vị của Đông Phương Thái Giám, hai bên là bài vị Bản từ Trung Phong Bút Giang, Bản cảnh Hiển quang Linh ứng, Bản Xứ Hồ Quốc công, Bản thổ thành hoàng, Bản cảnh Thành hoàng Linh hựu. Cung bên hữu thờ Bắc Phương Thái Giám, Ngô Vương thượng đẳng chính thần, Bản xứ Thành Hoàng, Tây Phương Thái Giám, Bản xứ Long quân chúa mạch.

Hàng năm ở Đền Đệ Nhất có các kỳ lễ lớn như: Lễ Khai hạ được tổ chức vào mồng 7 tháng giêng âm lịch. Lễ thượng nguyên còn gọi là tết Nguyên Tiêu là lễ cầu an, giải hạn đầu năm được tổ chức vào hai ngày 14 và 15 tháng Giêng (âm lịch). Lễ Đưa Nhương, lễ Thanh Minh được tổ chức đúng vào dịp tết Thanh minh, Lễ Phật Đản, lễ Kỳ Phúc, lễ Trung Nguyên, lễ Tế Đinh, lễ Thượng Tiêu...

Lớn nhất là lễ giỗ Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn được tổ chức vào rằm tháng ba âm lịch (từ ngày 14-15/3). Lễ chính được tổ chức vào 9 giờ sáng ngày 15/3 đến 11 giờ sáng. Hiện nay lễ giỗ được nhân dân làng Đệ Nhất tổ chức rất long trọng, thu hút không chỉ nhân dân địa phương mà còn thu hút đông đảo du khách thập phương. Đây được coi là một trong những kỳ lễ quan trọng nhất của làng Đệ Nhất.

Trải qua hàng trăm năm tồn tại, đền Đệ Nhất là công trình văn hóa tâm linh lâu đời tiêu biểu của nhân dân Diễn Nguyên nói riêng và cả vùng nói chung. Đây là nơi ghi dấu và chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử cũng như sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân địa phương trong nhiều thế kỷ. Vì thế hàng năm, vào những ngày lễ trọng nhân dân quanh vùng về dự rất đông. Đó cũng thể hiện tấm lòng tri ân, truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, góp phần giáo dục nhân cách đạo đức cho thế hệ hôm nay và mai sau.

 

Review and Evaluation


Alls
(From total review)

Sample Plan

Accommodations

Food

Attractions

Entertainment